Phân tích kỹ thuật (technical analysis) trong đầu tư chứng khoán
1. Phân tích kỹ thuật là gì?
Phân tích kỹ thuật là việc sử dụng các dữ liệu thị trường (dữ liệu thống kê về diễn biến giá và khối lượng chứng khoán giao dịch), các học thuyết thị trường mang tính kỹ thuật và biểu diễn thực trạng giao dịch qua các mô hình, biểu đồ để nghiên cứu, phân tích, nhận dạng, đánh giá các trào lưu lên xuống giá của thị trường trong hiện tại. Trên cơ sở đó, dự đoán xu hướng biến động giá của từng loại chứng khoán cụ thể, của nhóm ngành, hoặc của tất cả các loại chứng khoán đang được giao dịch trên thị trường trong tương lai.
Thông qua phân tích kỹ thuật, các nhà phân tích sẽ xác định các thời điểm thích hợp cho việc mua, hay bán chứng khoán. Bởi vì theo tính quy luật, nếu xem xét trong một khoảng thời gian đủ mức cần thiết của thống kê, các dao động ngẫu nhiên của giá chứng khoán đều gắn liền và chịu sự chi phối của một số các yếu tố nào đó. Mà sự ngẫu nhiên rời rạc đó sẽ tạo thành một chuỗi gắn với một xu hướng cơ bản nhất định.
Trong phân tích kỹ thuật, các nhà phân tích thường sử dụng phương pháp biểu đồ, các chỉ tiêu phân tích kỹ thuật, hoặc là hệ thống xếp hạng.
2. Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích kỹ thuật
– Thông tin từ SGDCK về tình hình giao dịch: quan hệ cung cầu về từng loại chứng khoán và toàn thị trường, kết quả giao dịch (khối lượng, giá và tổng giá trị thị trường), khối lượng chứng khoán mua bán nhiều nhất, số mã chứng khoán tăng giá nhiều nhất, số mã chứng khoán giảm giá nhiều nhất….
Thông tin từ các tổ chức niêm yết, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán: sự tham gia của các quỹ đầu tư, giao dịch của cổ đông nước ngoài…
Đặc biệt cần quan tâm lưu ý các thông tin nhạy cảm như: giao dịch cổ phiếu quỹ, tách gộp cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, trả cổ tức, phát hành thêm cổ phiếu, giao dịch của cổ đông lãnh đạo, giao dịch thâu tóm, sáp nhập…
3. Các chỉ số của thị trường chứng khoán
Một trong những điều quan tâm nhất của nhà đầu tư là xem xét sự biến động về giá chứng khoán. Để có một cái nhìn tổng quan về sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường, người ta đưa ra các chỉ số thị trường như chỉ số của thị trường cổ phiếu, chỉ số của thị trường trái phiếu. Trên thực tế, chỉ số của thị trường cổ phiếu lôi cuốn hơn sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư.
Các chỉ số của thị trường cổ phiếu được sử dụng phổ biến là chỉ số giá, chỉ số tổng giá trị thị trường, vòng quay cổ phiếu niêm yết… Các chỉ số thị trường được công bố công khai, nhờ đó người đầu tư có thể thấy được sự biến động giá cổ phiếu và mức độ hoạt động của thị trường.
a. Khái niệm chỉ số giá
Chỉ số giá chứng khoán là chỉ số phản ánh mức giá bình quân của chứng khoán tại một ngày nhất định so với ngày gốc.
Chỉ số giá cổ phiếu là chỉ số phản ánh mức giá bình quân của cổ phiếu tại một ngày nhất định so với ngày gốc. Chỉ số giá cổ phiếu phản ánh xu hướng phát triển của thị trường, của giá cổ phiếu, tình hình giao dịch trên thị trường và là công cụ được sử dụng phổ biến trong phân tích kỹ thuật.
Mỗi chỉ số được xây dựng theo những phương pháp khác nhau. Một chỉ số thị trường được xây dựng tốt sẽ cung cấp một sự chỉ dẫn khách quan về giá cả của tổng thể nghiên cứu. Ngược lại, một chỉ số xây dựng kém sẽ chỉ đưa ra những gì mà nó không có tính đại diện của tổng thể. Tuy nhiên, nếu tổng thể là đồng nhất thì thậm chí một chỉ số được xây dựng kém cũng cho ta một dấu hiệu tốt về xu hướng vận động của nó. Để xây dựng một chỉ số giá cổ phiếu, người ta phải xác định dung lượng mẫu, cơ cấu mẫu, phương pháp tính, ngày cơ sở, điểm cơ sở.
- Kích thước mẫu: mẫu được chọn phải là một tỷ lệ có ý nghĩa thống kê của tổng thể nghiên cứu. Những mẫu lớn thường cung cấp những dấu hiệu rõ ràng hơn về tổng thể. Nhưng nếu mẫu quá lớn và quá đa dạng sẽ không kinh tế và không hấp dẫn các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
- Cơ cấu mẫu: mẫu phải có tính đại diện cho tất cả các bộ phận của tổng thể nghiên cứu. Tùy theo chỉ số nghiên cứu khác nhau (ngành, hay toàn bộ thị trường…) mà lựa chọn cơ cấu cổ phiếu thích hợp. Một mẫu nghiên cứu không nên chỉ bao gồm những công ty lớn. Đối với chỉ số của ngành cần phải chọn những công ty mà tất cả không cùng trong một ngành hẹp…
- Phương pháp tính: phương pháp tính là yếu tố tác động trực tiếp đến mức độ biến động của chỉ số giá. Tùy theo các yêu cầu khác nhau trong phân tích mà chọn phương pháp tính nhất định (bình quân số học đơn giản, bình quân gia quyền…).
- v.v…
Chỉ số giá có thể tính cho từng ngành như chỉ số bình quân công nghiệp, vận tải, dịch vụ công cộng Dow-Jones của Mĩ (DJIA), hoặc nhóm ngành như chỉ số hỗn hợp bình quân Dow-Jones, hoặc cho toàn thị trường như chỉ số Hangseng, VN Index… Chỉ số giá được tính theo thời gian và theo thị trường làm cơ sở để so sánh tình hình, xu hướng thị trường theo thời gian, hoặc không gian, hay giữa các vùng lãnh thổ khác nhau.
b. Các phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu
Có nhiều phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu. Sau đây là một số phương pháp cơ bản:
– Phương pháp bình quân đơn giản
Đây là chỉ số bình quân số học đơn giản, không có sự tham gia của quyền số. Trong các trường hợp tách gộp cổ phiếu, phát hành quyền mua cổ phiếu, tăng vốn, người ta tiến hành điều chỉnh “số chia – ∑Pi0 ” để đảm bảo tính liên tục của chỉ số theo thời gian. Cách điều chỉnh số chia được quy định khác nhau ở mỗi thị trường.
It là chỉ số giá bình quân, Pit là giá cổ phiếu i kỳ nghiên cứu, Pi0 là giá cổ phiếu i kỳ gốc, I0 là chỉ số giá cơ sở thường là 100.
Cách tính này có đặc điểm là cổ phiếu có giá trị càng cao thì càng có ảnh hưởng lớn đến số bình quân. Sự tăng giá 1% của cổ phiếu có giá trị cao thì ảnh hưởng nhiều hơn so với sự thay đổi giá 1% của cổ phiếu có giá trị thấp. Mức bình quân không phản ánh giá bình quân vì hệ số chia thay đổi liên tục.
Chỉ số này chỉ phản ánh đúng khi độ lệch chuẩn nhỏ. Các chỉ số trung bình công nghiệp Dow-Jones (Dow-Jones Industrial Average – DJIA) của Mỹ, chỉ số Nikkei 225 của Nhật, chỉ số tổng hợp MIB của Italia áp dụng cách tính này.
– Phương pháp bình quân gia quyền giá trị
Phương pháp chỉ số bình quân gia quyền giá trị khác phương pháp bình quân giản đơn ở chỗ có sử dụng quyền số là số lượng cổ phiếu niêm yết. Đặc điểm của phương pháp này là loại cổ phiếu nào có số lượng niêm yết và giá giao dịch càng cao thì có tác động càng lớn tới chỉ số giá. Trong các cổ phiếu có cùng mức giá, cổ phiếu nào có số lượng niêm yết nhiều hơn (thường là cổ phiếu của các công ty lớn – các cổ phiếu dẫn dắt thị trường) sẽ có tác động tới chỉ số giá nhiều hơn. Những cổ phiếu giao dịch ít vẫn có ảnh hưởng, không phản ánh được thực thi thị trường.
Việc đưa ra chỉ số này nhằm so sánh giá trị thị trường hiện tại với một giá trị tham chiếu, hay còn gọi là giá trị cơ sở tại 1 thời điểm xác định trước đó (gọi là kỳ gốc hay kỳ cơ sở). Thông thường giá trị cơ sở được chọn là 100.
Chỉ số tổng hợp được tính toán dựa trên các biến về giá và số lượng cổ phiếu đang lưu hành (hoặc đang niêm yết trên thị trường).
Hai phương pháp thường được dùng để tính chỉ số giá này là phương pháp Laspeyres và Paascher.
+ Phương pháp Laspeyres: dựa trên lượng cổ phiếu kỳ cơ sở (kỳ gốc)
Trong đó: It là chỉ số giá bình quân Laspeyres, Qi0 là khối lượng cổ phiếu i (quyền số) kỳ gốc, hoặc cơ cấu khối lượng kỳ gốc.
Do quyền số là khối lượng cổ phiếu kỳ gốc nên phương pháp này có nhược điểm là không phản ánh được cơ cấu biến đổi của thị trường.
+ Phương pháp Paascher: dựa trên lượng cổ phiếu kỳ hiện hành
Trong đó: It là chỉ số giá bình quân Paascher, Qit là khối lượng cổ phiếu (quyền số) kỳ báo cáo hoặc cơ cấu khối lượng kỳ báo cáo.
Phương pháp tính này dựa trên quyền số là khối lượng cổ phiếu kỳ so sánh nên phải thường xuyên cập nhật số liệu cổ phiếu niêm yết kỳ so sánh (hay kỳ báo cáo).
Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất, nhiều nước áp dụng nhất. Các chỉ số như Kospi của Hàn quốc, NYSE Composite, S&P 500 của Mỹ, Topix của Nhật, FTSE 100 của Anh, TSE của Đài Loan, Hang-seng Hongkong và CAC 40 của Pháp được tính dựa trên phương pháp Paascher. Còn chỉ số FAZ và DAX của Đức được tính theo phương pháp Laspeyres.
Một số chỉ số giá cổ phiếu
– Chỉ số chứng khoán Việt Nam: VN Index
Trong đó:
- Pit giá hiện hành của cổ phiếu i,
- Qit là khối lượng cổ phiếu i niêm yết trên thị trường,
- Pi0 là giá cổ phiếu i kỳ gốc,
- Qi0 là khối lượng cổ phiếu i kỳ gốc. I0 = 100
Các trường hợp phải tính số chia mới:
Trong quá trình tính toán chỉ số VN-Index bên cạnh sự biến động về giá cổ phiếu, còn có một số nhân tố khác làm thay đổi cơ cấu cổ phiếu niêm yết như: niêm yết mới, niêm yết bổ sung, tách gộp cổ phiếu. Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng đến tính không liên tục của chỉ số, nghĩa là chỉ số ngày báo cáo không đồng nhất với ngày trước đó. Do đó, cần điều chỉnh số chia cho phù hợp với những thay đổi về tình hình cổ phiếu niêm yết trên thị trường.
Hiện tại ở Việt Nam đang tồn tại 3 chỉ số cổ phiếu chính, đó là VN Index, HNX Index và UpCOM Index đo lường biến động giá bình quân của tất cả cổ phiếu niêm yết và đăng kí giao dịch (không mang tính chọn lọc, đại diện) trên các sàn này. Vì vậy, các chỉ số này ít có ý nghĩa trong mục đích đầu tư như thành lập quỹ đầu tư chỉ số, đánh giá kết quả đầu tư theo rổ chỉ số, phát triển các sản phẩm đầu tư liên kết chỉ số cổ phiếu. Để đáp ứng nhu cầu đầu tư, thị trường đã cho ra đời một số chỉ số cổ phiếu mới. Tiêu chí lựa chọn các cổ phiếu trong rổ phổ biến là mức vốn hóa thị trường và tính thanh khoản cao.
Bảng: Một số chỉ số cổ phiếu trên TTCK Việt Nam
– Chỉ số Dow-Jones
Chỉ số Dow-Jones do hai nhà kinh tế người Mỹ là Charles Henry Dow và Edward David Jones xây dựng năm 1884. Chỉ số Dow-Jones bao gồm 4 chỉ số và được tính theo phương pháp bình quân giá.
– Dow-Jones công nghiệp (DJIA – Dow Jones Industrial Average) được xác định trên cơ sở giá cổ phiếu của 30 công ty công nghiệp hàng đầu (blue chip) Hoa Kỳ. Ngày nay Dow 30 là chỉ số bao gồm 30 công ty niêm yết lớn nhất của Mĩ trên TTCK NYSE, NASDAQ và AMEX. Cụm từ công nghiệp chỉ còn mang tính chất lịch sử do các công ty trong rổ chỉ số không còn liên quan nhiều đến ngành công nghiệp.
- Dow-Jones vận tải (DJTA – Dow Jones Transportation Average) được xác định trên cơ sở giá cổ phiếu của 20 công ty vận tải hàng đầu Hoa Kỳ.
- Dow-Jones dịch vụ công cộng (DJUA – Dow Jones Utilities Average) được xác định trên cơ sở giá cổ phiếu của 15 công ty dịch vụ công cộng hàng đầu Hoa Kỳ.
- Dow-Jones hỗn hợp được xác định trên cơ sở giá cổ phiếu của toàn bộ 65 cổ phiếu kể trên.
Để loại trừ ảnh hưởng của các yếu tố có tính chất kỹ thuật như tách và gộp cổ phiếu, phát hành thêm… người ta đã sử dụng “số chia” (Divisor) để xác định chỉ số giá khi có những thay đổi này. Số chia cũng thường xuyên được thay đổi để phù hợp với thực tế về việc tách, gộp… cổ phiếu ở từng thời kỳ như năm 1985 số chia là 1,09; năm 1988 là 0,754; năm 1992 con số này là 0,4627…..
Chỉ số Dow-Jones được tính toán và công bố đều đặn trên các phương tiện thông tin đại chúng với tần suất 30 phút/lần, phù hợp với diễn biến giao dịch cổ phiếu trên TTCK New York của Hoa Kỳ. Nó được coi là một trong những thước đo quan trọng, tổng quát và là cơ sở để dự báo diễn biến của thị trường. Các trào lưu lên, xuống giá cổ phiếu được thể hiện thông qua sự tăng giảm chỉ số Dow-Jones qua các thời kỳ.
Theo quan điểm của lý thuyết Dow-Jones, nếu căn cứ vào thời gian, xu hướng biến động giá cổ phiếu được cấu thành bởi 3 xu hướng:
- Xu hướng dài hạn (xu hướng chính) thể hiện diễn biến giá cổ phiếu trong một khoảng thời gian tương đối dài từ vài tháng tới vài năm.
- Xu hướng trung hạn (xu hướng trung gian, xu hướng phụ) thể hiện diễn biến giá cổ phiếu trong những khoảng thời gian cấu thành trong xu hướng dài hạn.
- Xu hướng ngắn hạn (xu hướng thứ yếu) là những dao động giá cổ phiếu hàng ngày thậm chí qua các phiên giao dịch liền kề.
Thông qua việc biểu đồ hóa diễn biến giá cổ phiếu, các nhà phân tích xác định các “đỉnh cao” và “điểm đáy” nhất thời cũng như xu hướng cơ bản tất yếu của một thời kỳ nhất định làm cơ sở để dự báo xu hướng giá trong tương lai.
Một số chỉ số TTCK khác
4. Các chỉ báo kỹ thuật cơ bản
Chỉ báo kỹ thuật phản ánh một chuỗi các giá trị được tính toán từ giá chứng khoán, khối lượng giao dịch, hoặc các chỉ báo kỹ thuật khác bằng các công thức toán học. Mục đích của việc xây dựng các chỉ báo kỹ thuật là để cảnh báo, xác lập, hoặc dự báo xu thế giá chứng khoán.
Có rất nhiều chỉ báo và theo thời gian các chỉ báo mới có thể được tiếp tục tạo ra. Một số chỉ báo được sử dụng phổ biến trong phân tích kỹ thuật hiện nay là:
- Đường trung bình động (MA)
- Đường trung bình động hội tụ / phân kỳ (MACD)
- Chỉ số biên độ biến động giá Bollinger (Bollinger Band – BB)
- Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI)
- Động lượng (Momentum) và tốc độ thay đổi giá (Rate of Price-ROC)
- Chỉ số lưu lượng/ dòng tiền (MFI)
Trong các chỉ báo nêu trên, 3 chỉ báo đầu (1), (2) & (3) thuộc nhóm chỉ báo xu thế; chỉ báo (4), (5) thuộc nhóm chỉ báo động lượng; chỉ báo (6) thuộc nhóm chỉ báo sức mạnh Đường trung bình động (MA)
Bình quân động của giá chứng khoán là mức giá bình quân của chứng khoán trong một khoảng thời gian xác định.
Đường trung bình động (Moving Average – MA) là công cụ phản ánh xu thế chung của từng cổ phiếu. Yếu tố quan trọng trong tính toán MA là xác định khoảng thời gian. Việc lựa chọn cho mỗi số trung bình động phụ thuộc vào đối tượng phân tích. Khoảng thời gian phổ biến thường được sử dụng để tính MA là 10 ngày, 20 ngày, 25 ngày, 50 ngày, 200 ngày…
Ý nghĩa:
- MA là chỉ báo hữu ích dùng để theo dõi xu hướng biến động giá chứng khoán và sự đảo chiều của những xu hướng này.
- MA có tác dụng làm nhẵn các số liệu biến động của giá chứng khoán để dễ phân tích, loại bỏ những biến động nhỏ giúp nhà phân tích có cái nhìn chính xác về xu thế chính của thị trường.
* Một số đường MA cơ bản:
– Đường trung bình động giản đơn (SMA)
SMA (Simple Moving Average) của một loại chứng khoán được tính bằng cách cộng giá đóng cửa của nó trong khoảng thời gian nhất định rồi chia tổng tìm được cho khoảng thời gian tính toán (số ngày trong khoảng thời gian tính MA còn gọi là độ trễ).
Trong đó:
- Pi là mức giá đóng cửa ngày
- i, n là thời gian tính toán (số ngày).
– Đường trung bình động mũ (EMA)
EMA (Exponential Moving Average) của một loại chứng khoán được tính bằng cách cộng một phần giá ngày hôm nay với giá trị SMA ngày hôm qua của chính loại chứng khoán đó theo một tỷ trọng nào đó.
EMA = today’s close*0.09 + yesterday’s SMA*0.91
Nhiều nhà đầu tư không quen với việc sử dụng tỷ lệ phần trăm nên sử dụng công thức chuyển đổi sau:
Tỷ lệ phần trăm = 2 / (1+n)
Một số nhà phân tích khác tính EMA theo công thức sau:
EMA (hiện tại) = [Giá hiện tại – EMA (trước đó)] x số nhân + EMA (trước đó)
Trong đó: Số nhân = 2 / (1+ n) n là thời gian tính toán, hay thời kỳ trễ
Các chỉ báo từ đường MA
- Đường MA xu thế lên / xuống => giá chứng khoán lên / xuống
- Đường giá ở trên / dưới đường MA => xu thế giá tăng / giảm
- Điểm cắt giữa MA ngắn hạn và dài hạn: ngắn hạn ở trên => giá tăng
=> SMA hay EMA? Thực tế cho thấy EMA nhạy cảm hơn nhưng có thế cho báo hiệu không chính xác.
Ngoài ra, người ta còn có thể tính toán và phân tích các đường trung bình động khác như Đường trung bình động tuyến tính có trọng số (WMA), Đường trung bình động biến đổi (VMA), Đường trung bình động hồi quy theo thời gian (TMA).
– Đường trung bình động hội tụ / phân kỳ (MACD)
Ý nghĩa:
- MACD (Moving Average Convergence Divergence) là chỉ báo cho thấy sự quy tụ hay phân kỳ của trung bình chuyển động.
- MACD cho sự khẳng định dấu hiệu thị trường khi đường MA ngắn hạn giao nhau với đường MA dài hạn.
Các loại đường MACD
+ MACD chuẩn
MACD được xây dựng bởi Gerald Appel trong những năm 1950. MACD chuẩn là trung bình động mũ EMA 26 ngày và 12 ngày.
MACD = EMA (12) – EMA (26)
Để nhận biết dấu hiệu biến động giá người ta thường sử dụng đường tín hiệu EMA 9 ngày. Khi MACD chuẩn cắt lên trên hoặc xuống dưới đường EMA 9 => dấu hiệu giá tăng hoặc giảm.
MACD chuẩn dao động quanh 0.
MACD > 0 => EMA 12 cao hơn EMA 26.
MACD > 0 và tăng => tốc độ thay đổi của EMA 12 nhanh hơn EMA 26 => giá sẽ tăng và ngược lại.
+ Đường MACD – Histogram
MACD – Histogroam do Thomas Aspray xây dựng năm 1986.
MACD-H = MACD (26,12) – EXP (9)
Ý nghĩa của đường MACD-H: MACD-H phản ánh độ lệch giữa hai đường MACD và đường tín hiệu của nó. Khi nào MACD xuyên chéo qua đường tín hiệu thì MACD-H xuyên chéo qua đường số 0. MACD-H được dùng để dự báo trước sự thay đổi trong khuynh hướng biến động giá chứng khoán.
=> Tín hiệu từ đường MACD-H
Tín hiệu tăng giá khi MACD-H hình thành phân kỳ dương và MACD hướng lên trên đường tín hiệu.
Tín hiệu giảm giá khi đường MACD-H hình thành một phân kỳ âm và MACD xuyên chéo xuống phía dưới đường tín hiệu.
– Chỉ số biên độ biến động giá Bollinger (Bollinger Band – BB)
Bollinger Band là miền thể hiện sai lệch xung quanh giá trị trung bình (SMA) và được xác định theo một tỷ lệ phần trăm nhất định phía trên và phía dưới đường MA. Chỉ số Bollinger do John Bollinger xây dựng, bao gồm 3 phần:
- Trung bình động giản đơn (SMA)
- Giới hạn trên (upper band): SMA + 2 x độ lệch chuẩn
- Giới hạn dưới (lower band): SMA – 2 x độ lệch chuẩn
Độ lệch chuẩn đo lường mức độ biến động của giá. Khi giá tăng/giảm mạnh thì giới hạn biên sẽ lớn. Bollinger gợi ý sử dụng SMA (20, 2). Trong thực tế tùy theo tình hình thị trường mà lựa chọn khoảng thời gian thích hợp.
Ứng dụng:
+ Khoảng 70% giá của cổ phiếu nằm trong dải BB
+ Khi giá đi lên dải trên:
- Tiếp tục => báo hiệu xu thế giá tiếp tục tăng
- Đảo chiều => cảnh báo về sự suy giảm
+ Khi giá đi xuống dải dưới: ngược lại
* Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI)
RSI (relative streng index) còn gọi là Hệ số tương quan do J.Welles Wilder đưa ra năm 1978. RSI là một chỉ số động lượng đo sức mạnh tương đối của một chứng khoán nhất định, hoặc của cả thị trường. Đây là chỉ số leading khá phổ biến đo lường phần tương quan giữa tăng giá với giảm giá trong khoảng thời gian nhất định. RSI được đo theo thang độ từ 0% đến 100% và lấy hai đường 30% và 70% làm hai đường chỉ báo kỹ thuật. Wilder gợi ý lấy 14 thời điểm (giá đóng cửa của 14 ngày).
Công thức tính RSI:
Đường trung bình nằm giữa màu xám 50. Biểu đồ RSI có các đường chính đáng chú ý sau:
Đường 50 ở giữa, là một dấu hiệu nhận biết chứng khoán sắp tăng giá hay giảm giá. Nếu đường RSI tăng vượt qua đường này, đó là dấu hiệu loại chứng khoán đó có kỳ vọng tăng giá (Bullish). Ngược lại, nếu đường RSI giảm xuống dưới đường này, đó là dấu hiệu giá của chứng khoán đó giảm (Bearish).
Đường 70 phía trên được coi là ngưỡng lỗ mua (overbought) nghĩa là đã mua lỗ quá nhiều so với mức cân bằng của thị trường. Khi đó, nhà đầu tư sẽ bán bớt ra để trở về mức cân bằng làm cho giá giảm xuống. Thường khi đường RSI rớt xuống dưới ngưỡng 70, đó là dấu hiệu giá chứng khoán đó sắp giảm – dấu hiệu nên bán ra..
Đường 30 ở dưới được coi là ngưỡng lỗ bán (oversold) nghĩa là lượng bán ra quá nhiều làm giá giảm xuống thấp hơn so với giá cân bằng. Nhà đầu tư sẽ mua thêm để đẩy giá lên. Thường khi đường RSI từ dưới lên và vượt ngưỡng 30, đó là dấu hiệu giá chứng khoán đó sắp tăng – dấu hiệu nên mua vào.
Ngoài quan điểm trên, một số nhà phân tích khác sử dụng ngưỡng 80/20 thay vì ngưỡng 70/30.
– Động lượng (Momentum) và tốc độ thay đổi giá ROC (Rate of Change)
Ý nghĩa: Động lượng và tốc độ thay đổi giá là 2 chỉ số đo lường xu hướng tăng tốc hoặc giảm tốc của giá trong một chu kỳ tăng giá hoặc giảm giá; nó là các chỉ số dẫn dắt (leading) vận động giá, thể hiện tốc độ thay đổi, hay độ dốc của đường giá chứng khoán.
Cách tính Momentum: xác định bởi tỷ lệ phần trăm giữa hai mức giá đóng cửa ở 2 thời điểm với khoảng thời gian cố định.
- Dấu hiệu: mua khi momentum âm, bán khi momentum dương
Cách tính ROC: ROC = Pt / (Pt – n)
Trong đó: Pt là giá ngày t; Pt-n là giá ngày t-n
– Chỉ số lưu lượng tiền MFI (Money Flow Index)
MFI do Quong/Soudack xây dựng.
MFI đo sức mạnh của dòng tiền vào và ra với một loại chứng khoán và chú ý đến trọng số là khối lượng chứng khoán giao dịch. MFI được đo lường trong thang độ từ 0 đến 100 và thường được sử dụng chu kỳ là 14 ngày. MFI được xác định theo công thức sau: MFI = 100 – 100 / (1+MR)
Trong đó: MR = Tổng luồng tiền dương / Tổng luồng tiền âm Luồng tiền = Giá điển hình theo ngày × Khối lượng giao dịch Giá điển hình = (Giá cao + Giá thấp + Giá đóng cửa ) / 3
Dấu hiệu: Cầu về một loại chứng khoán được đánh giá là quá lớn (mua quá – Over bought) khi chỉ báo MFI cắt đường 80 từ dưới lên, đó là tín hiệu để nhà đầu tư bắt đầu bán ra.. Khi MFI cắt đường 20 từ trên xuống được cho dấu hiệu cung đang quá lớn (bán quá – over sold), đó là tín hiệu để nhà đầu tư bắc đầu mua vào..
Tổng hợp các chỉ báo cơ bản
5. Điểm mạnh, yếu của phân tích kỹ thuật
Điểm mạnh
- Có thể áp dụng với mọi thị trường;
- Không phụ thuộc vào báo cáo tài chính;
- Thu thập thông tin khá dễ dàng và có độ chính xác cao;
- Có thể xem xét trong các khoảng thời gian khác nhau: giờ, ngày, tuần…
- Cho phép có thể nhanh chóng phát hiện ra xu thế…
Điểm yếu
- Giả thuyết hành vi con người lặp lại;
- Dự đoán về giá làm cho xu hướng giá tự điều chỉnh;
- Mang tính chủ quan cao, cách nhận định phụ thuộc vào quan điểm từng người;
- Chỉ mang tính xác suất, không phải là chắc chắn;
- Một số trường hợp phải sử dụng công thức toán học rất phức tạp;
- Vẫn có thể bị chậm trễ vì đến khi phát hiện ra xu thế thì giá đã biến động mạnh…
(Lytuong.net – Nguồn tham khảo: topica.edu.vn)