Gia đình là gì? Đặc trưng, chức năng và mối quan hệ với xã hội
Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
Gia đình là một thiết xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ bản nhất của xã hội.
Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Lịch sử nhân loại có những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ một chồng, thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng có các loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.
Gia đình là tế bào của xã hội, gồm tập hợp người cùng chung sống, được hình thành bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống. Các thành viên trong gia đình quan hệ với nhau bởi quyền và nghĩa vụ về tài sản, nhân thân, và sự cộng đồng về đạo đức.
Đặc trưng của gia đình
Theo tâm lý học xã hội, Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ nhất có từ hai người trở lên.
Nhóm gia đình bao gồm nam nữ, có quan hệ giới tính. Các thành viên trong gia đình có quan hệ huyết thống, ruột thịt với nhau. Các thành viên trong gia đình có quan hệ kinh tế với nhau: Cha mẹ nuôi dạy con cái, con cái có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ khi về già và con cái được kế thừa tài sản của cha mẹ để lại.
Gia đình là một nhóm nhỏ vận động liên tục, có sự tác động lẫn nhau giữa các thành viên tạo ra mối quan hệ liên nhân cách trên cơ sở thương yêu lẫn nhau. Gia đình là ngôi nhà chung cho các thành viên có quan hệ ruột thịt chứa đựng những niềm vui và nỗi buồn, những thất bại và thành công, những lo âu và sung sướng, những công việc và nghỉ ngơi, những bực dọc và thư thái… Gia đình là một xã hội thu nhỏ. Gia đình là nơi giao thoa giữa xã hội và cá nhân. Cá nhân tiếp thu nền văn hóa xã hội thông qua giáo dục gia đình, đồng thời lại đưa truyền thống gia đ ình vào xã hội. Trong những gia đình sống không có hạnh phúc thì thường xảy ra xung đột gia đình, xung đột giữa các thế hệ sống chung ở trong gia đình.
Vai trò
Không có gia đình, không có xã hội. Bởi vậy, gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội :
- Gia đình là: Tổ chức xã hội đầu tiên của con người, mà ở đó con người sinh ra và lớn lên, đồng thời là môi trường giao tiếp đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách đối với mỗi người.
- Nơi bảo tồn, chuyển giao các giá trị văn hóa truyền thống, là thành trì chống lại các tệ nạn xã hội.
- Trường học đầu tiên và suốt đời của con người. “Ý nghĩa cơ bản và mục đích của cuộc sống gia đình – đó là giáo dục con cái”. “Gia đình cùng với những mối quan hệ giữa con cái và bố mẹ là trường học đầu tiên giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất. Bố và mẹ, các anh chị, ông và bà là những người giáo dục đầu tiên của trẻ ở lứa tuổi trước khi đến trường và họ vẫn là những người tiếp tục giáo dục khi con cháu họ đã đi học” (V.A.Xu-khôm-lin-xki).
- Nơi gắn bó, liên kết các thành viên thường xuyên, lâu dài và bền vững ; là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho cá nhân. Chính bởi vậy, “tình yêu gia đình – đó là tình cảm phổ biến nhất và bền vững nhất,… với ý nghĩa là nhân tố có ảnh hưởng tới cuộc sống của con người, nó là tình cảm quan trọng nhất và tốt đẹp nhất trong tất cả tình cảm tốt đẹp của con người”. (H.G.Tréc-nư-sép-xki).
Với vai trò xã hội trên, gia đình có các chức năng cơ bản sau :
- Tái sản xuất con người, duy trì sự trường tồn của dòng họ và tái sản xuất sức lao động cho xã hội.
- Làm kinh tế và tổ chức tốt cuộc sống gia đình về mọi mặt.
- Giáo dục, nuôi dưỡng con người cho xã hội.
Như vậy, “gia đình là một sự nghiệp to lớn và đầy trách nhiệm, bố mẹ lãnh đạo sự nghiệp đó và chịu trách nhiệm về nó trước xã hội, trước hạnh phúc của mình và cuộc sống của con cái”. Gia đình là nền tảng của xã hội, muốn có một xã hội văn minh, hạnh phúc, trước hết phải làm cho mỗi gia đình hạnh phúc, văn minh.
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
– Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội
+ Trước hết, gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
+ Thứ hai, gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.
+ Thứ ba, gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện được mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc của gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội. Vì vậy, muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ Chủ Tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”.
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, là bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗi cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
– Trình độ phát triển của xã hội quy định hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu gia đình
Quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc thù của trình độ phát triển kinh tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu gia đình. Từ gia đình tập thể – với hình thức quần hôn, huyết thống; gia đình cặp đôi với hình thức hôn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể với hình thức hôn nhân một vợ một chồng. Từ gia đình một vợ một chồng bất bình đẳng sang gia đình một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Tất cả những bước tiến trong gia đình đều phụ thuộc vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bởi những quan hệ xã hội. Vì vậy, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống…
– Tính độc lập tương đối của gia đình
Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia đình vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì, gia đình và quan hệ gia đình còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật.. Vì vậy, mặc dù xã hội có những sự thay đổi nhưng một số gia đình vẫn lưu giữ những truyền thống của gia đình.
Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
a. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng riêng có của gia đình, nhằm duy trì nòi giống, cung cấp sức lao động cho xã hội; cung cấp công dân mới, người lao động mới, thế hệ mới đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.
Chức năng này đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng khi thực hiện chức năng này cần dựa vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và sự gia tăng dân số để có chính sách phát triển nhân lực cho phù hợp. Đối với nước ta, chức năng sinh đẻ của gia đình đang được thực hiện theo xu hướng hạn chế, vì trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, dân số đông.
b. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Đây là chức năng cơ bản của gia đình, bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các yêu cầu của mỗi thành viên và của gia đình. Sự tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và cho xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, các gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ. Đảng và Nhà nước đã đề ra các chính sách kinh tế – xã hội tạo mọi điều kiện cho các gia đình làm giàu chính đáng từ lao động của mình (Tùy vào hoàn cảnh của từng gia đình trí thức hay công nhân, các nhà khoa học v.v… mà thực hiện chức năng này cho phù hợp). Ở nước ta hiện nay, kinh tế gia đình được đánh giá đúng với vai trò của nó. Đảng và Nhà nước có những chính sách khuyến khích và bảo vệ kinh tế gia đình, vì vậy mà đời sống của gia đình và của xã hội đã được cải thiện đáng kể.
Thực hiện chức năng kinh tế tốt sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất cho tổ chức đời sống gia đình.
Việc tổ chức đời sống gia đình chính là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên và thời gian nhàn rỗi để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình; đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo sẽ nâng cao sức khỏe của các thành viên đồng thời cũng duy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người.
Thực hiện tốt tổ chức đời sống gia đình không những đảm bảo hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của từng cá nhân mà còn góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
c. Chức năng giáo dục
Nội dung giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, nhân cách, thẩm mỹ v.v… Phương pháp giáo dục của gia đình cũng đa dạng, song chủ yếu là bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền thống.
Chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu là cha mẹ, ông bà đối với con cháu, cho nên giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục nhà trường và xã hội, trong đó giáo dục gia đình có vai trò quan trọng được coi là thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế được.
d. Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm
Đây là một chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này kết hợp với các chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác… thì môi trường gia đình là nơi giải quyết có hiệu quả nhất.
Trong gia đình, mọi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng trên, trong đó người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ đảm nhận một số thiên chức không thể thay thế được. Vì vậy, việc giải phóng phụ nữ được coi là mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia đình.
Tóm lại: Gia đình, thông qua việc thực hiện các chức năng vốn có của mình, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Các chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Việc phân chia chúng là tương đối. Cần tránh tư tưởng coi trọng chức năng này coi nhẹ chức năng kia, hoặc tư tưởng hạ thấp chức năng gia đình. Mọi quan điểm tuyệt đối hóa, đề cao quá mức hay phủ nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.
Các mối quan hệ cơ bản trong gia đình
Đó là:
- Quan hệ vợ – chồng
- Quan hệ cha mẹ và con cái
- Quan hệ anh chị em
- Quan hệ dòng họ
Cách cư xử giữa các thành viên trong quan hệ gia đình cho hợp đạo lí làm người chính là yêu cầu đạo đức quan trọng, vì đó là tiền đề để duy trì sự tồn tại của gia đình ; giáo dục và hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ ; góp phần giáo dục, phát triển nhân cách toàn diện cho con người .
– Trong quan hệ vợ chồng: Trên cơ sở hôn nhân tiến bộ, quan hệ vợ chồng là nền tảng quyết định các quan hệ khác trong đời sống gia đình. Do đó, trong quan hệ vợ chồng cần bảo đảm các yêu cầu sau :
+ Phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, niềm tin và sự thuỷ chung từ cả hai phía. Sự thuỷ chung là điều kiện tiên quyết để làm cho gia đình trở thành thành trì chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, của đại dịch HIV/AIDS.
+ Có quan hệ bình đẳng – hợp tác, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng lưu giữ, phát triển và chuyển giao truyền thống văn hóa của gia đình cho thế hệ sau.
+ Hoà thuận, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. “Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn” (Tục ngữ), làm cho gia đình thực sự là nơi gắn bó, liên kết các thành viên thường xuyên, lâu dài và bền vững, thực sự là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho các thành viên.
+ Biết nhường nhịn nhau, tế nhị trong cư xử :
“Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa có đời nào khê” (Ca dao)
+ Thống nhất trong tổ chức, quản lí thực hiện các chức năng của gia đình và chi tiêu, sử dụng tài sản.
+ Thống nhất trong sự quan tâm, phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc, giáo dục con cái.
– Quan hệ cha mẹ và con cái:
+ Cha mẹ phải rất mực thương yêu, chăm lo giáo dục các con trở thành công dân tốt cho xã hội. Yêu cầu này đòi hỏi các bậc cha mẹ :
- Phải là tấm gương đạo đức trước con cái.
- Biết giáo dục con theo khoa học và nghiêm khắc
“Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn bé thơ”. (Ca dao)
- Biết tôn trọng quyền và bổn phận của con cái.
- Đối xử công bằng giữa các con, giữa con trai và con gái.
- Nhân từ, độ lượng đối với con.
+ Ngược lại, con cái phải làm tròn bổn phận với cha mẹ
- Kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ.
- Vâng lời cha mẹ.
- Ân cần quan tâm, chăm sóc cha mẹ.
- Biết giữ gìn nền nếp, gia phong.
- Không làm những điều trái đạo lí, pháp luật để cha mẹ đau lòng, phấn đấu trở thành niềm tự hào của ông bà, cha mẹ.
– Quan hệ anh chị em: Anh chị em “máu chảy ruột mềm”, phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Anh chị phải biết nhường nhịn, nêu gương tốt cho em. Làm em phải biết tôn trọng và vâng lời anh chị.
– Quan hệ dòng họ: Đoàn kết, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bảo ban nhau giữ gìn truyền thống của dòng họ. Không làm điều phi luân thường đạo lí, trái pháp luật để ảnh hưởng đến danh gia. Đoàn kết và hòa nhập cộng đồng – đó là truyền thống đạo đức quý báu của dân tộc ta đã bao đời nay.
Danh ngôn:
- Chị ngã em nâng.
- Giọt máu đào hơn ao nước lã.
- Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
- Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- “Không gì có thể tác động lên tâm hồn non nớt của trẻ mạnh hơn quyền lực của sự làm gương, còn giữa muôn vàn tấm gương thì không có gì sâu sắc và bền chặt bằng sự mẫu mực của bố mẹ”.
(Tổng hợp nhiều nguồn)